← Quay lại
12 tháng 12, 2025 14 phút đọc

Chương 1: Bạn thân

Bạn 10 tuổi. Bạn thân của bạn sống bên kia đường. Thật ra, cửa sổ phòng ngủ của cả hai đối diện nhau. Hằng đêm, sau khi bố mẹ bắt phải ngủ sớm, bạn cảm thấy khó chịu vì còn biết bao nhiêu chuyện chưa nói hết, nào là suy tư, quan sát, bí mật, thọc mạch, chuyện đùa và cả những giấc mơ nữa. Ai có thể trách bạn được khi khát khao chuyện trò là bản chất của loài người.

Trong khi đèn ngủ còn sáng, hai đứa bạn có thể vẫy tay cho nhau từ cửa sổ và sử dụng cử chỉ để ra dấu hay ngôn ngữ hình thể đơn giản để truyền đạt suy nghĩ. Nhưng để truyền tải những thứ phức tạp thì rất khó. Và một khi phụ huynh của bạn ra lệnh “Tắt đèn ngay!” thì tình thế dường như vô vọng.

Làm sao để nói chuyện tiếp đây? Nếu bạn đủ may mắn để có điện thoại riêng lúc 10 tuổi thì có lẽ một cuộc gọi thầm hay tin nhắn có thể được. Nhưng nếu ba mẹ bạn có thói quen tịch thu điện thoại trước giờ ngủ hay thậm chí tắt cả mạng Wi-fi thì sao? Phòng ngủ không có gì để liên lạc điện tử thật sự rất biệt lập.

Hai đứa bạn có chỉ đèn pin mà thôi. Mọi người đều biết đèn pin được phát minh để cho tụi trẻ đọc sách trong đêm; đèn pin dường như cũng hoàn hảo để chuyện trò sau khi trời tối. Chúng chắc chắn là đủ im lặng, có tính định hướng cao và có lẽ sẽ không lọt qua khe cửa phòng ngủ để đánh thức ông bà già đa nghi nhà bạn.

Thế dùng nó để chuyện trò được không? Hoàn toàn đáng để thử. Bạn đã học cách viết chữ trên tập vở hồi cấp một, vậy nên chuyển đổi kiến thức này sang đèn pin có vẻ khả thi. Bạn chỉ cần đứng ngay cửa sổ và vẽ các chữ cái bằng ánh sáng. Với chữ O, bạn bật đèn pin, vẽ một đường tròn trên không rồi tắt đèn đi. Còn chữ I, bạn tạo một đường thẳng đứng. Thế nhưng chẳng chóng thì chầy bạn sẽ nhận ra cách này là một thảm hoạ. Khi xem những đường ngoằn ngoèo từ đèn pin của cậu bạn, bạn thấy thật khó mà tập hợp cả đống ấy vào óc. Những đường sáng ngang dọc này không đủ chính xác.

Có lẽ bạn đã từng xem một bộ phim trong đó có một cặp thủy thủ ra dấu với nhau trên biển bằng ánh sáng nhấp nháy. Trong một bộ phim khác, một điệp viên đong đưa một cái gương để phản chiếu ánh sáng mặt trời vào căn phòng nơi có một điệp viên khác đang bị giam cầm. Có thể đó là giải pháp. Thế nên bạn liền phát minh ra một kỹ thuật đơn giản. Mỗi chữ cái trong bảng chữ cái ứng với một chuỗi nháy đèn pin. Chữ A là 1 nháy, B là 2, C là 3 và cứ thế cho đến 26 nháy là Z. Từ BAD là 2, 1 và 4 nháy với khoảng nghỉ ngắn ở giữa các chữ cái để bạn khỏi phải nhầm thành chữ G có 7 nháy. Bạn sẽ dừng lâu hơn một chút cho cả chữ.

Nghe có vẻ hứa hẹn ha. Tin tốt là bạn không còn phải vẫy đèn pin qua lại trên không nữa; giờ chỉ cần nhắm và bấm.  Còn tin xấu là thông điệp đầu tiên bạn muốn gửi (“How are you?”) hóa ra lại cần một con số to đùng, 131 nháy! Hơn nữa, bạn đã quên mất các dấu câu, nên bạn không biết phải cần bao nhiêu cái nháy cho dấu chấm hỏi.

Nhưng đã gần tới đích rồi. Bạn nghĩ, chắc mẩm, trước đây hẳn ai đó đã gặp chuyện này và bạn đoán đúng rồi đấy. Trong ánh ban mai với một chuyến nghiên cứu ở thư viện, bạn khám phá ra một phát minh kỳ diệu được biết đến là mã Morse. Nó chính là những gì bạn hằng mong đợi, mặc dù giờ bạn phải học lại cách “viết” tất cả chữ cái.

Điểm khác biệt nằm ở chỗ: Trong cái hệ thống bạn phát minh ấy, mỗi ký tự của bảng chữ cái là số lần nháy nhất định, từ 1 cho A tới 26 cho Z. Trong mã Morse, bạn có hai loại nháy – nháy ngắn và nháy dài. Điều này làm mã Morse phức tạp hơn, hẳn nhiên, nhưng trong thực tế nó lại rất hữu hiệu. Câu “How are you?” giờ chỉ cần 32 nháy (vài cái ngắn, vài cái dài) so với 131 nháy và đã gồm cả mã cho dấu chấm hỏi.

Khi bàn về mã Morse, người ta không nói là “nháy ngắn” và “nháy dài”. Thay vào đó, họ nói tới “dot (chấm)” và “dash (ngang)” bởi vì đó là cách tiện lợi để trình bày mã trên bản in. Trong mã Morse, mỗi ký tự bảng chữ cái ứng với một trình tự những dot và dash, như bạn có thể thấy trong bảng sau.

Bảng mã Morse


Mặc dù mã Morse, hoàn toàn không liên quan tới máy tính, nhưng làm quen với các bản chất của mã là tiền đề cho việc hiểu thấu đáo ngôn ngữ ẩn và cấu trúc bên trong của phần cứng và phần mềm máy tính.

Trong sách này, từ code (mã) thường mang nghĩa là một hệ thống truyền tải thông tin giữa người với người, người với máy tính và cả giữa các máy tính với nhau.

Mã cho phép bạn giao tiếp. Đôi khi chúng ta nghĩ mã như là một thứ bí mật (vì mình hay kêu là mật mã mà 😉), nhưng không phải lúc nào cũng vậy. Thật ra, đa phần mã phải được hiểu tường tận vì chúng là nền tảng giao tiếp của nhân loại.

Âm thanh ta phát ra từ miệng để tạo thành từ ngữ cấu thành một mã mà chỉ những ai có thể nghe và hiểu ngôn ngữ đó mới nhận thức được. Ta gọi mã này là “chữ được nói” hay “lời nói”.

Trong cộng đồng người điếc, các ngôn ngữ ký hiệu dùng các cử chỉ bằng tay để truyền tải từng chữ cái riêng lẻ hay cả từ hoặc khái niệm. Hai hệ thống phổ biến nhất ở Bắc Mỹ là American Sign Language (ASL) (Ngôn Ngữ Ký Hiệu Mỹ), được phát triển vào đầu thế kỷ 19 ở Trường Mỹ Cho Người Điếc và Langue des signes Québécoise (LSQ), là một biến thể khác cho ngôn ngữ ký hiệu tiếng Pháp.

Ta dùng một mã khác cho chữ trên giấy hay các phương tiện khác, được gọi là “chữ viết” hay “văn bản”. Văn bản có thể được viết hoặc gõ bằng tay và sau đó được in trên báo, tạp chí và sách hoặc hiển thị trên màn hình điện tử. Trong nhiều ngôn ngữ, có một sự đối ứng giữa văn bản và lời nói. Ví dụ như trong tiếng Anh, chữ cái và nhóm chữ tương ứng (không ít thì nhiều) với âm thanh nói ra. 

Với những người khiếm thị, chữ viết có thể thay thế bằng mã Braille dùng hệ thống các chấm dập nổi tương ứng với chữ cái, nhóm chữ và cả từ. (Tôi sẽ thảo luận nhiều hơn về mã Braille trong Chương 3.)

Khi lời nói phải được chuyển thành chữ rất nhanh, tốc ký hay viết tắt sẽ hữu dụng. Tại toà án hoặc khi tạo phụ đề cho bản tin trực tiếp hay chương trình thể thao, người viết tốc ký dùng máy đánh tốc ký với bàn phím giản lược tích hợp mã với nội dung tương ứng.

Chúng ta dùng những mã khác nhau trong giao tiếp bởi vì một vài mã tiện lợi hơn số khác. Ví dụ, mã của các từ được nói ra không thể lưu trên giấy, thay vào đó ta dùng mã của những từ được viết. Việc dùng giấy và lời nói để trò chuyện trong tối qua một khoảng xa là không khả thi. Chính vì thế, mã Morse là một sự thay thế tiện lợi. Một bộ mã hữu ích nếu nó phục vụ cho một mục đích mà không mã nào khác có thể làm được.

Như chúng ta sẽ thấy, một vài loại mã cũng được sử dụng trong máy tính để lưu trữ và giao tiếp với số, âm thanh, nhạc, ảnh và phim. Máy tính không thể giải quyết các mã của loài người một cách trực tiếp bởi vì máy tính không thể sao chép cái cách  loài người dùng mắt, tai, miệng và ngón tay. Khó để dạy máy tính nói chứ đừng nói tới việc thuyết phục nó hiểu tiếng người.

Tuy nhiên một trong những xu thế công nghệ máy tính vừa đây đã cho phép máy tính cá nhân chụp, lưu, thực thi, kết xuất tất cả các kiểu thông tin được dùng trong giao tiếp con người thành trực quan (văn bản và ảnh), dạng có thể nghe được (chữ được nói ra, âm thanh và nhạc) hay sự kết hợp của cả hai (hoạt ảnh và phim). Tất cả kiểu thông tin này đều yêu cầu bộ mã cho riêng chúng, như là hội thoại thì yêu cầu một nhóm các cơ quan này (miệng và tai) trong khi viết và đọc lại yêu cầu nhóm các cơ quan khác (tay và mắt).

Ngay cả bảng mã Morse ở trên chính nó cũng là một dạng mã. Bảng đó chỉ ra rằng mỗi ký tự được đại diện bởi một chuỗi các dấu chấm và gạch ngang. Nhưng ta không thể thật sự gửi chấm và ngang đó đi được. Khi gửi mã Morse với đèn pin, chấm và ngang được thay bằng nháy đèn.

Khi gửi mã Morse bằng đèn pin, bạn bật và tắt công tắc đèn rất nhanh (nháy ngắn) cho một chấm. Bạn để đèn pin sáng hơi lâu hơn một chút (bật tắt nháy chậm hơn) cho một gạch ngang. Để gửi chữ A, ví dụ, bạn bật và tắt đèn pin rất nhanh rồi bật và tắt chậm hơn khi nãy. Bạn dừng một tí trước khi gửi ký tự tiếp theo. Theo quy ước, chiều dài gạch ngang thường gấp ba lần dấu chấm. Ví dụ, nếu dấu chấm dài một giây, gạch ngang dài ba giây. Người nhận nhìn thấy một nháy ngắn, một nháy dài và biết đó là chữ A.

Các khoảng nghĩ giữa dấu chấm và ngang của mã Morse rất quan trọng. Ví dụ khi bạn gửi chữ A, đèn pin nên tắt giữa chấm và ngang một khoảng thời gian bằng với dấu chấm. (Nếu dấu chấm dài một giây, khoảng cách giữa chấm và ngang cũng một giây.) Các chữ cái trong cùng một chữ được tách bạch bởi một đoạn nghỉ dài hơn khoảng bằng chiều dài của một gạch ngang (hay ba giây nếu đó là độ dài của nó). Ví dụ, đây là mã Morse cho “hello”, minh họa các khoảng nghỉ giữa các chữ cái:

hello bằng mã Morse


Các chữ tách riêng bởi một khoảng cách dài cỡ hai gạch ngang (sáu giây nếu một gạch ngang dài ba giây). Đây là mã cho từ “hi there”:

hi there bằng mã Morse


Độ dài thời gian đèn pin còn sáng hay tắt không cố định. Chúng phụ thuộc vào độ dài dấu chấm mà tới lượt nó lại phụ thuộc vào việc công tắt đèn pin được bấm nhanh như thế nào và người gửi mã Morse có thể nhớ mã cho một chữ cái cụ thể nhanh ra sao. Gạch ngang của một người gửi nhanh có thể bằng dấu chấm của người gửi chậm. Vấn đề nhỏ này có thể gây khó khăn cho việc đọc mã Morse, nhưng sau một hoặc hai chữ cái, người nhận có thể sẽ hiểu được cái nào là chấm và cái nào là ngang.

Ngay từ đầu, định nghĩa của mã Morse – tôi nói định nghĩa ở đây nghĩa là sự tương ứng của trình tự chấm và ngang với các ký tự trong bảng chữ cái – ngẫu nhiên theo sự bố trí của máy đánh chữ. Song khi soi kỹ hơn, thì không hoàn toàn như vậy. Các mã ngắn hơn và đơn giản hơn thì được gán cho những chữ cái được dùng thường xuyên hơn, như E và T. Những người chơi trò Scrabble và fan của Wheel of Fortune có thể nhận ra điều này ngay. Các chữ ít được dùng hơn, như Q và Z (chữ cái sẽ cho bạn 10 điểm trong trò Scrabble), có mã dài hơn.

Hầu hết mọi người đều biết một ít mã Morse. Ba chấm, ba ngang và ba chấm biểu thị cho SOS, tín hiệu nguy cấp quốc tế. SOS không phải viết tắt của một từ nào cả – mà nó đơn giản chỉ là một đoạn mã Morse dễ nhớ. Trong suốt thế chiến thứ hai, đài BBC (British Broadcasting Corporation) mở đầu một vài bản phát thanh bằng đoạn đầu bản Giao hưởng số 5 của Beethoven – BAH, BAH, BAH, BAHMMMMM! – khi soạn bản nhạc này Ludwig có biết đến ý nghĩa chiến thắng nằm trong đó đâu, vì nó tượng trưng cho mã Morse của chữ V (Victory). =))

Một hạn chế của mã Morse đó là nó không có sự khác biệt giữa ký tự viết hoa và viết thường. Nhưng có một điểm cộng là mã Morse gồm luôn mã cho các con số bằng cách sử dụng một trình tự năm dấu chấm và ngang:

Số trong mã Morse


Những mã này, ít nhất, thì cũng trật tự hơn một tí so với mã chữ cái. Hầu hết các dấu câu dùng năm, sáu hay bảy chấm, ngang:

Dấu trong mã Morse


Những mã được bổ sung vào được dùng để đại diện cho các chữ cái có dấu của một vài ngôn ngữ châu Âu và những chuỗi viết tốc ký cho những mục đích đặc biệt. Mã SOS chính là một chuỗi tốc ký: một chuỗi được gửi liên tiếp với chỉ một khoảng nghỉ một-chấm giữa ba chữ cái.

Bạn sẽ thấy rằng thật dễ làm sao để hai đứa gửi mã Morse nếu có một chiếc đèn pin được làm riêng cho mục đích ấy. Hơn các đèn pin công tắc trượt, những chiếc đèn pin này thêm một nút bấm mà bạn chỉ đơn giản nhấn và thả để bật và tắt. Sau khi thử vài lần, có thể bạn sẽ đạt tốc độ gửi và nhận 5 hay 10 chữ trong một phút – tuy vẫn còn chậm hơn so với nói bằng lời (đâu đó vào khoảng 100 chữ một phút), nhưng chắc là đã đủ cho hai bạn rồi.

Khi cuối cùng bạn và cậu bạn thân cũng nhớ được mã Morse (vì đó là cách duy nhất để bạn rành gửi và nhận nó), bạn cũng có thể dùng nó bằng tiếng để thay thế lời nói bình thường. Để đạt tốc độ tối đa, bạn phát âm một dấu chấm là dih (hay dit cho dấu chấm cuối của chữ cái) và một dấu ngang là dah (ý câu này là khi nói tiếng anh ta phải phát âm luôn cả âm cuối, như ở đây dot được đọc là đót-tờ, “tờ” này đánh lưỡi, vậy sẽ nhanh hơn nếu ta đọc dih vì nó không có âm cuối để khỏi phải đánh lưỡi). Tương tự như vậy mã Morse giảm tải ngôn ngữ viết thành chấm và ngang, phiên bản âm thanh của mã giảm lời nói xuống còn hai âm tiết.

Từ khóa ở đây là hai. Hai kiểu nháy, hai âm tiết, bất kì cái hai nào thực sự đều có thể truyền tải tất cả các kiểu thông tin với những sự kết hợp hợp lý.
Cảm ơn bạn đã đọc bài viết này.
20